Báo điện tử Bảo vệ Pháp Luật,

Viện kiểm sát kháng nghị vụ “em trai lợi dụng anh bị tâm thần để bán đất”

Nội dung bài viết được lấy tự động vào lúc 13:38:06 19/09/2024 theo đường link https://baovephapluat.vn/vien-kiem-sat-khang-nghi-kien-nghi/vien-kiem-sat-khang-nghi-vu-em-trai-loi-dung-anh-bi-tam-than-de-ban-dat-164928.html
Đảm bảo nội dung là mới nhất, chính xác nhất và tôn trọng bản quyền về nội dung của tác giả. Hệ thống tự động chuyển về bài viết gốc trong 30 giây. Nếu bạn muốn ở lại trang này để đọc nội dung do hệ thống thu thập tự động, vui lòng click
(GMT+7)
Xét thấy vụ án “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đánh giá chứng cứ thiếu khách quan và có nguyên đơn là người bị mất năng lực hành vi dân sự nên VKSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành kháng nghị và được TAND tỉnh chấp nhận, tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Đồng chi Trương Thị Thuy Thủy, Kiểm sát viên trung cấp Phòng 9 VKSND tỉnh kiểm sát xét xử tại phiên tòa.
Nội dung vụ án
Ông Đ. bị bệnh tâm thần từ nhỏ nên được bố đẻ tặng cho một căn nhà cấp 4 và 500m2 diện tích đất vườn và thổ cư (có giấy viết tay) tại phường Tự An, TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk).
Năm 2019, ông A. (là em trai của ông Đ.) được cử là người giám hộ cho ông Đức.
Ngày 17/2/2020, ông Đ. được UBND Tp. Buôn Ma Thuột cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) số CT 352359, thửa số 197, tờ bản đồ 12, diện tích 380,9m2 (trong đó 300m2 đất thổ cư). Phần diện tích đất còn lại chưa được cấp Giấy CNQSDĐ.
Sau khi được cấp Giấy CNQSDĐ, ông Đ. đã thực hiện thủ tục tách thửa. Cụ thể:
Thửa đất 299, tờ 12, diện tích 96,1m2, Giấy CNQSSDĐ số CT 373569; sau đó ông Đ. ký hợp đồng chuyển nhượng cho anh B. với giá 30 triệu đồng nhưng thực tế là 970 triệu đồng. Tuy nhiên, ông B. không giao tiền cho ông Đ. mà giao tiền cho bà C. (vợ cũ của ông A.).
Thửa đất 300, tờ bản đồ số 12, diện tích 284,8m2 tách thành 2 thửa (gồm: Thửa đất 301, diện tích 127,3m2 và thửa đất 302, diện tích 157,5m2) chuyển nhượng cho 2 người con của bà C. vì mục đích lợi dụng ông Đ. bị bệnh tâm thần tài sản sau này phải chia thừa kế cho nhiều người. Bà C. hứa sẽ chữa trị, chăm lo sức khoẻ cho ông Đ.
Ông A. chuyển nhượng thửa đất 301, 302 với giá lần lượt là 150 triệu và 100 triệu cho ông G và L. Tuy nhiên, các hợp đồng trên chỉ thực hiện trên thủ tục giấy tờ và thực tế 2 người này không đưa tiền cho ông A. để chăm sóc sức khỏe cho ông Đ.
Quan điểm của đương sự và Tòa án
Như vậy, ông Đ. là người có tài sản nhưng hiện nay không có nhà ở, bị bệnh không có tiền để chữa trị. Ông A. là người giám hộ đã không làm tròn trách nhiệm, thực hiện chuyển nhượng đất của ông Đức cho các con của mình mà không vì mục đích của người được giám hộ. Nay ông A. khởi kiện yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông A. với ông G. và ông L.; giữa ông A. với ông B. Sau đó ông A. rút yêu cầu khởi kiện đối với ông B.
Các bị đơn ông L., ông G. và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà C. không đồng ý với đơn khởi kiện của ông A. vì cho rằng đã nhận chuyển nhượng các thửa đất đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật. Hiện ông L., ông G. đã được cấp GCNQSDĐ, đã giao tiền tại nhà ông A. vì tin tưởng nhau nên không lập giấy tờ.
Bản án sơ thẩm của TAND Tp. Buôn Ma Thuột đã tuyên không chấp nhận đơn khởi kiện của Đ. (người giám hộ là ông A.) về việc yêu cầu hủy các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Viện kiểm sát nhận thấy,
Về thủ tục tố tụng: Ngày 13/4/2023, ông A. đã có đơn tự nguyện rút phần yêu cầu đối với Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông A. với ông B. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án sơ thẩm nhận định đã nhiều lần triệu tập Văn phòng công chứng Đắk Lắk nhưng đều vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, Tòa án không xác minh tại Văn phòng công chứng là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.
Về nội dung: Các đương sự đều thừa nhận nguồn gốc thửa đất 297 là do bố đẻ tặng cho ông Đ. và ông A. được cử là người giám hộ; còn ông G. được công nhận là người giám sát người giám hộ của ông Đ.
Ông A. đã tách thửa đất 297 thành 2 thửa đất để chuyển nhượng cho các con là ông G. và ông L. nhằm mục đích lợi dụng ông Đ. bị bệnh tâm thần mất năng lực hành vi dân sự, tài sản sẽ bị phân chia cho người khác.
Hơn nữa, các hợp đồng chuyển nhượng chỉ thể hiện giá trị thấp hơn nhiều so với giá thị trường là nhằm mục đích để trốn thuế đối với nhà nước.
Ông A. bán đất cho người khác là không thực hiện đúng nghĩa vụ của người giám hộ trong việc quản lý tài sản của người được giám hộ theo quy định tại các Điều 57 và 59 BLDS. Hợp đồng chuyển nhượng chỉ thể hiện việc giao và nhận tiền do các bên tự thực hiện nhưng Bản án sơ thẩm chỉ căn cứ vào hợp đồng của các bên để nhận định số tiền chuyển nhượng đã được ghi trong hợp đồng và các bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự là không chính xác.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm nhận định thửa đất số 301 đã mang tên ông G. và vợ, còn thửa đất số 302 hiện tại ông L. đang thế chấp để vay vốn tại Ngân hàng nên việc hủy các hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ trên làm ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ ông G. và Ngân hàng là nhận định chủ quan, không xem xét và đánh giá đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, chủ thể chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng QSDĐ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND tỉnh đã lập luận đầy đủ các quan điểm trên để bảo vệ kháng nghị và được Hội đồng xét xử TAND tỉnh chấp nhận./.
Thu Thủy - Hải Âu
Sao chép thành công